Tử Vi Bắc Phái Là Gì - Và Những Điều Cần Biết

-
Với nhiều người khi mới nghiên cứu về tử vi có thể cảm thấy xa lạ với khái niệm “tử vi bắc phái”. Tuvi.vn xin gửi đến bạn đọc thông tin chi tiết về Tử vi bắc phái là gì trong bài viết ngay sau đây. Bạn đọc có thể tham khảo để hiểu rõ hơn về bộ môn mệnh lý học đặc biệt này.

Bạn đang xem: Tử vi bắc phái là gì

Tử vi Bắc Phái có những kiến thức nào?

1. Tổng quan về tử vi bắc phái 1.1. Định nghĩa 1.2. Nguồn gốc 2. Nội dung tìm hiểu về tử vi bắc phái 2.1. Các bước căn bản 2.2. Một số lưu ý trong bài bố mệnh bàn 2.3. Các yếu tố trọng yếu  2.4. Một số thuật ngữ cần chú ý 3. Vai trò của tử vi bắc phái

1. Tổng quan về tử vi bắc phái

Từ xưa đến nay, tử vi luôn được coi là bộ môn mệnh lý học có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Theo nghiên cứu, người ta chia tử vi thành tử vi nam phái và tử vi bắc phái. Tương truyền hai phái này vốn quy về một gốc. Bộ tử vi nguyên bản bao gồm 7 cuốn sách trong cung được dùng riêng cho việc dùng người và trừ gian diệt ác. Tuy nhiên sau đó 4 cuốn đã bị trộm đi, và dần trở thành nền tảng cho tử vi nam phái sau này. Còn lại 3 cuốn nâng cao được giữ lại, rồi đến thời kì chiến tranh thì lưu truyền qua Đài Loan. Do vậy mà việc phân biệt thật giả, sách vở nguyên gốc hay ngụy thư thường khó khăn với người tìm hiểu về tử vi bắc phái. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn hiểu một cách tổng quan nhất về các mặt của tử vi bắc phái. 

*

1.1. Định nghĩa

Tử vi bắc phái hay tứ hóa phái tên gọi đầy đủ là bắc phái tứ hóa phi tinh tử vi đẩu số. Phái này bao gồm các chi lưu đẩu số thuộc hệ thống tứ hóa phái. Nếu các nhà tử vi tam hợp phái (nam phái) tập trung vào các sao cố định trên mệnh bàn (thùy tượng) thì các nhà tử vi tứ hóa phái (bắc phái) lại tập trung vào “phi cung hóa tượng”. Họ coi đó như phần chìm của cả tảng băng, là phần tinh túy nhất trong sở học ngàn đời. 

Vậy tứ hóa là gì? Vì sao nó đóng vai trò nền tảng trong tử vi bắc phái. Trong tử vi bắc phái, nhìn chung hầu hết các nghiên cứu đều xoay quanh tứ hóa, bao gồm: khoa, quyền, lộc, kị. Đây là đại biểu cho 4 tượng, không phải 4 sao. Khi xảy ra sự chuyển động của đại, tiểu hạn, bản thân các cung nhập hạn có thiên can làm khơi dẫn tứ hóa khiến tứ hóa phi nhập các cung hoặc tự hóa (thông tin tra bảng tứ hóa của thập can), từ đó mà một trong 4 tượng xảy ra, có thể là may mắn (cát), cũng có thể là đen đủi (hung). 

1.2. Nguồn gốc

Như đã nói qua ở trên, nguồn gốc của tử vi bắc phái được cho là xuất phát từ cổ học cung đình xưa. Tuy nhiên do sau này rơi vào tay Tưởng Giới Thạch rồi lưu lạc sang Đài Loan, rồi lại có sự chỉnh sửa, thay đổi nên đến nay nó đã mang nhiều dị bản. 

Một thuyết khác cho rằng tử vi bắc phái do một vị Quảng Đông mai huyền “Tố tâm lão nhân” tên là Viên Đạt cơ duyên xảo hợp đã đem tư liệu truyền lại cho Thái Minh Hồng tiên sinh. Đồng thời, ông Phúc Dụ sinh tiền cũng từng viết bộ “đấu số hộ pháp” dựa trên sở học của thầy Tử Dương. Sau này ông xác định “nguồn gốc tử vi bắc phái” là do ân sư Tử Dương cùng Thái Minh Hồng cùng sáng lập nên. 

Tóm lại, tử vi bắc phái có nguồn gốc từ rất lâu về trước, có nhiều thông tin khác nhau về sự ra đời của học phái này. Nhưng nhìn chung đều cho thấy rằng nó có tầm ảnh hưởng rộng rãi và bác đại uyên thâm, góp phần tạo nên lịch sử. 

2. Nội dung tìm hiểu về tử vi bắc phái

Nội dung của tử vi bắc phái không thể nói rõ được trong một vài dòng, sau đây sẽ là một số ý chính cần chú ý mà chúng tôi tổng hợp lại. 

2.1. Các bước căn bản

Đầu tiên, để bắt đầu việc tìm hiểu về tứ hóa phái, con đường thông dụng nhất là bạn cần tìm kiếm thông tin cơ sở về thuật số như thiên can, địa chi, âm dương, ngũ hành, xung, hợp, quái vị, … Khi đã nắm vững một số điều căn bản, bước tiếp theo sẽ là học cách bài bố mệnh bàn, rồi học thuộc tính chất các sao cùng cách cùng của mỗi tinh hệ (đặc biệt 14 sao chính và hệ thống sao phủ phổ biến). Giai đoạn này có nội dung gần tương tự với tử vi nam phái hay tam hợp phái. Cuối cùng mới đến việc tìm hiểu lí luận Phi tinh hóa tượng, phần này được coi là khó khăn và phức tạp nhất với người học tử vi bắc phái. 

2.2. Một số lưu ý trong bài bố mệnh bàn

Bước bài bố mệnh bàn ảnh hưởng trực tiếp đến việc tu tập và luận đoán tử vi. Trong tứ hóa phái, người học cần lưu tâm về một số điều như sau: 

– Một số chi lưu thuộc tứ hóa phái chỉ an các nội dung như 14 sao chính, 6 cát tinh, 6 sát tinh, Lộc Tồn, … và không thêm lưu diệu. 

– Khái niệm “lai nhân cung” có thể xuất hiện trong lí luận của Khâm thiên môn. 

– Hiện tượng phi hóa, tự hóa và chuyển phi hóa nên được ghi chép cẩn thận. 

– Cung mệnh khởi đầu cho đại vận. Lưu niên sử dụng phổ biến thay thế cho tiểu hạn. 

– Thuyết miếu vượng hãm thỉnh thoảng không có tác dụng trong một số chi lưu cụ thể. 

2.3. Các yếu tố trọng yếu 

Tứ hóa phái mang trong mình tinh túy tích lũy qua ngàn năm. Tuy vậy, một số lí luận thường xuyên đường ứng dụng trong quá trình luận đoán là: 

– Lập thái cực: Bước này nói về việc lựa chọn chủ đề thuộc cung chức nào đó làm “dụng”. Khi có được trọng tâm, tiêu điểm của sự kiện thì mới có thể bắt đầu luận đoán. 

– Cung chức hoán vị: Nếu muốn hiểu rõ và vận dụng 12 cung vào luận đoán, bạn cần học cách vượt lên trên giới hạn của chúng, tức là hiểu được sự thiên biến vạn hóa trong huyền nghĩa, từ đó mà luận giải ra được đáp án của chủ đề mà mình đang quan tâm. 

– Phân thể dụng (âm dương): Phân chia đối ứng trong từng sự kiện, cụ thể là chia ra đâu là “chủ”, đâu là “khách” hay phân hóa âm dương trong tử vi. 

– Định tam tài: hay chỉ tam bàn “thiên địa nhân”, điều này chuyên dùng để phân tích “cách cục” trong phạm vi “mệnh”, phân tích “định số” trong phạm vi “đại vận” kết hợp cùng thông tin về tượng của sự kiện và phân tích “ứng số” trong phạm vi “lưu niên”. Ba mặt này đều có vai trò quan trọng trong việc luận đoán của tử vi bắc phái. 

– Phi cung hóa tượng: Hiểu đơn giản là quỹ đạo của tứ hóa phi tinh, đây là lí luận phức tạp và huyền ảo bậc nhất trong tử vi bắc phái. Nó mang công năng đặc biệt là xâu chuỗi một loạt mối quan hệ giữa các cung, vẽ ra hướng đi của vận mệnh, từ đó mà xem xét được đời người. 

2.4. Một số thuật ngữ cần chú ý

Sau đây, chúng ta sẽ cùng đi vào tìm hiểu về một số thuật ngữ thông dụng mà hầu hết người học tử vi bắc phái cần nắm vững: 

– Ngã cung: Bao gồm các cung thuộc quyền kiểm soát và sở hữu của mình, đó là mệnh, tài, quan, tật, phúc và điền. 

– Tha cung (chúng sinh): Ngược lại với ngã cung, tha cung gồm các cung không thuộc chi phối của cá nhân mà thuộc về chúng sinh. Đó là phối, tử tức, di, nô, bào, phụ. 

Tha cung đứng vị trí quan trọng hàng đầu vì trong hiện tượng phi hóa, đặc biệt là hóa kị, sau khi nhập tha cung thì có xu thế tìm kiếm cung đối diện (ngã cung) để đem trả. Điều này có thể hiểu rằng lá số tử vi của ai thì kết quả của các hiện tượng phi hóa đều cần liên hệ mật thiết với người đó, chứ không thể để xem thông tin cho một người hay một cung khác được (tha cung). Một số trường hợp cụ thể việc này được cho phép như là xem để biết thêm về vợ hoặc chồng tương lai, khi đó ta cần lập cung phu thê thành mệnh, từ đó biến thành ngã cung, rồi luận đoán ra thông tin về phu thê, … 

– Sao hành hóa: Tứ hóa nhập vào đâu thì sao đó được gọi là sao hành hóa. 

– Thùy tượng: Ý nghĩa đơn thuần của riêng các sao, trong đó không bao gồm sự tác động khi được đặt dưới mối quan hệ với các sao khác hoặc hiện tượng khác. 

– Cung tự hóa: Điều sớm muộn cũng ứng tượng trên mệnh bàn. Ví dụ như giả thiết xét ông A có thiên can Ất, cung tử tức thuộc Sửu, sự tác động từ can cung Ất dẫn tới sao Thiên cơ hóa lộc lại xảy ra hiện tượng tự hóa lộc. Hiện tượng này rất thường hay xảy ra, chỉ là sớm hay muộn. Đây được coi là một tiêu biểu cho cung tự hóa. 

Tóm lại, các điểm quan trọng được nêu rõ ở trên phải được ứng dụng và kết hợp một cách nhuần nhuyễn thì mới tạo lập hiệu quả xứng tầm. Nếu tách riêng đơn lẻ hay thiếu bất kì yếu tố nào cùng đều không được, vì chúng được ví như các mắt xích trong tử vi bắc phái, có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Đây được coi là tinh hoa của dịch học và hà lạc lí số. 

3. Vai trò của tử vi bắc phái

Do cơ chế của tử vi nam phái với hàng trăm sao khác nhau chuyên xem về các vấn đề như tính cách, thành tựu cuộc đời, nên việc người học không thông suốt, logic và mạch lạc thì đi lạc trong mê cung các sao là điều khó tránh. Điều này sẽ khó xảy ra đối với tử vi bắc phái do phái này chỉ dùng tứ hóa để làm chính lộ, kết luận thời điểm hung cát dựa trên nền cung khí để thêm phần chi tiết. 

Chính vì vậy, việc xem đúng hạn với người học nam phái là cảnh giới huyền thoại, phải tinh thông lắm mới xem được. Đây lại là một hạn chế nữa của nó so với tử vi bắc phái. Vì thời gian người trẻ có thể xem nó nếu theo trường bắc phái chỉ là vài tháng mà thôi. 

Tuy nhiên không thể qua đó mà nói tử vi bắc phái có vai trò quan trọng hơn nam phái. Cũng như việc so sánh giữa việc xem nhiều lá số cùng với việc nghiên cứu sâu về một vấn đề thì thật vô nghĩa. Nhiều người cho rằng nếu chỉ cần đoán mệnh, mà bản thân đã tự hiểu rõ về mình thì chỉ cần có tử vi bắc phái là đủ. Tuy nhiên, ngay khi tìm hiểu để biết trước tháng nào ngày nào xảy ra chuyện gì, bạn đều cần thực hiện thủ pháp hội sao nam phái. Về cơ bản, muốn học được bắc phái và đi sâu, trước hết bạn phải là cao thủ nam phái. Do có cùng căn cơ nguồn gốc, việc hiểu đúng căn bản mới là thứ người học tử vi thật sự cần quan tâm chứ không phải là sự phân chia nam bắc phái. 

Ở trên trình bày sơ lược về tử vi bắc phái. Trong quá trình tìm hiểu và theo đuổi phái tử vi này, việc thực hành kết hợp với nghiên cứu sẽ giúp bạn nhận được nhiều tâm đắc, đồng thời cần chiêm nghiệm thêm nhiều lá số để quen thuộc với sự vận hành của các sao. 

Câu hỏi thường gặp

*
Ngã cung trong tử vi bắc phái gồm những gì?

Ngã cung trong tử vi bắc phái bao gồm các cung thuộc quyền kiểm soát và sở hữu của mình, đó là mệnh, tài, quan, tật, phúc và điền.

Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

Email Address:

Follow


*

Tình hình nghiên cứu Tử vi Đẩu Số trong giai đoạn cuối thế kỷ 20, có thể nói là rất nhiều nhân tài, danh gia đua nhau xuất hiện. Hơn nữa, đã thoát ly phương pháp luận đoán đơn giản của giai đoạn trước, tiến vào một thời kỳ mới, phương pháp luận đoán đã dần dần hướng vào hoàn thiện chỉnh thể, phức tạp mà chu đáo, không chỉ phân khoa tỉ mỉ, mà còn rất nhiều Môn phái bổ khuyết chỗ sở trường, sở đoản cho nhau.Do phương pháp luận đoán của Tử Vi Đẩu Số thường dựa vào “kinh nghiệm” để suy diễn, không như khoa mệnh lý Tứ Trụ có những nguyên tắc rõ ràng để noi theo, vì vậy khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số nó không có khuôn khổ giới hạn nội dung luận đoán một cách rõ nét. Nhưng, nói một cách khái quát về các xu hướng luận đoán, thông thường được phân thành hai xu hướng lớn, hai dòng chảy lớn khi luận đoán. Đó là khuynh hướng luận đoán của phái Chủ Tinh và khuynh hướng luận đoán của phái Lưu Tinh. Trong phái Lưu Tinh, lại phân thành hai chi phái, đó là phái Thái Tuế và phái Tiểu Hạn.

Phái Chủ TinhPhái Chủ Tinh xem trọng hiệu lực của các sao Chính và tính chất cách cục tình lý của sao. Mang tác dụng của các sao lớn suy diễn đến mức độ tinh tế, và được phối hợp với các sao nhỏ, để luận đoán sự phát sinh biến hóa tăng lên hay giảm đi. Phái luận đoán theo cách này rất chú trọng các hiện tượng trong Mệnh bàn gốc, căn cứ vào đây để luận đoán vận mệnh đời người, có độ chính xác khá cao. Đây là lưu phái Tử Vi Đẩu Số thuộc loại rất cơ bản.

Xem thêm: Mật khẩu otp agribank là gì ? cách đăng ký, sử dụng ra sao? cách lấy mã otp nhanh chóng 2023

Phái Thái TuếNgoại trừ việc xem trọng sự ứng nghiệm của các sao Chính và Mệnh bàn, phái này còn một bí kíp một bộ phận về “hành vận”, có khuynh hướng tu chính bộ phận Mệnh Cục gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn Lưu niên, thì lấy cung vị Thái Tuế làm chủ, mang tinh diệu Lưu niên của bản phái bày bố vào 12 cung Địa chi theo từng năm, để luận đoán cát hung, hưng suy của niên vận đó. Nếu phân chia tỉ mỉ hơn về phương thức luận đoán, thì lại có hai loại biến hóa khác, một môn phái chủ trương Sao động mà Cung bất động, tức 12 cung bản mệnh bất động, còn Lưu tinh thì “Phi động”. Và môn phái thứ hai thì chủ trương Sao động mà Cung đồng thời cũng động, tức 12 cung bản mệnh “Phi động” theo từng năm, Lưu tinh cũng biến động theo Năm.

Phải Tiểu HạnNgoại trừ việc xem trọng “hiện tượng” vốn có của các sao Chính và Mệnh bàn, phái này còn chú trọng bộ phận Đại hạn – Tiểu hạn, có khuynh hướng tu chính quan điểm của Mệnh gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn Lưu niên, thì lấy Cụng vị của Tiểu hạn làm chủ, mang tinh diệu Lưu niên của bản phái xem trọng để bài bố “Phi động” vào 12 cung địa chi theo từng Năm, lấy cung vị Tiểu hạn làm chủ yếu, theo nguyên tắc “Cung động” và “Sao động”, biến hóa theo chiều nghịch lần lượt 12 cung, vì vậy có thể luận đoán rất tỉ mỉ những thay đổi, những biến động trong đời sống của con người.

Tam Hợp phái và Tứ Hóa phápCác phái hệ có thêm vào Tử Vi Đẩu Số các phương thức luận đoán, như Ngũ hành, Bát quái, Thần sát, Quan sát, Trung hạn, hoặc Lục Nhâm, … hay không, nói chung, phần lớn các hệ phái đều không tách rời phương thức lý luận truyền thống. Chẳng hạn như, vận dụng cục tính và tình lý của các sao, tinh hệ hỗ động (các hệ thống sao dẫn động lẫn nhau), và phương pháp “Tam phương Tứ chính”. Theo dòng chảy, các Môn phái lấy phương pháp luận cung Mệnh theo Tam phương làm chủ yếu, thì được gọi chung là phái Tam Hợp.Khoảng thập nhiên 80 ~ 90 của thế kỷ trước, các thuyết Phi Tinh Tử Vi Đẩu Số kế tiếp nhau ra đời ở Đài Loan, hay nói theo bình diện xã hội đó là công khai xiển dương Môn phái. Nhóm Môn phái này, được một số người gọi là phái “Tứ Hóa”. Về sau theo đà càng lúc càng nhiều người phát biểu sự truyền thừa Học thuyết Phi tinh của môn phái mình, nên mọi người đổi lại gọi là phái “Phi Tinh”. Theo truyền thuyết, các phái “Phi Tinh” có nguồn gốc lâu đời, lấy Quái khí luận của Đạo gia làm xương sống lập thuyết, chú trọng vận dụng Cung vị trùng điệp, Thái cực điểm, Thể Dụng, và Quỹ tích của Phi tinh hóa.Cái gọi là “Đồ Hóa Tứ tượng”, hay còn được gọi là “Tứ tượng Hóa đồ”, mà gọi tắt là “Tứ Hóa”. Tứ tượng là quy luật tự nhiên của Trời Đất, giống như bốn Mùa thay đổi không ngừng. Bản chất của các sao (tinh, thần, đẩu, diệu) gọi là “tinh tính” (tính của sao); các Sao gặp gỡ nhau sẽ nảy sinh ra sự ưa – ghét, hợp Cách hay không hợp Cách, đó gọi là “tinh tình” (tình của sao), và các Sao luôn biến hóa thay đổi, bản chất luôn biến hóa thay đổi này của các Sao được gọi là “hóa diệu” (sao biến hóa). Tử Vi Đẩu Số vận dụng 18 sao chính để luận đoán cát – hung. Các sao này, vốn chỉ là biểu tượng, là phù hiệu đại biểu cho “Số”. Cho nên, Tử Vi Đẩu Số chỉ là sự vận dụng của “Số”, mà không còn là “tinh chiêm” như đã luận thuật từ trước.Các Sao theo một quy luật nhất định bay vào các Cung, nhưng sự cát – hung của một Cung cá biệt, không thể chỉ lấy Sao ở một vị trí Cung mà đoán định. Bởi vì, vị trí các Sao tuy đều là cố định, nhưng sẽ thay đổi theo thời gian, chịu ảnh hưởng bởi sự biến hóa của Tứ tượng. Các Tinh và Cung phối hợp với nhau, sẽ cho ra 144 loại Mệnh cách này. Vì vậy, các tổ hợp Sao theo quy luật Tứ tượng mà “phi” (bay), đó gọi là “Phi tinh”.Do đó, “Phi tinh Tứ hóa” là mượn Can để độn Tinh (sao), lấy giả tượng phối hợp với Chi để ứng thời, làm căn bản cho Phi tinh Tử Vi Đẩu Số !Trước kia, các phái Tam Hợp đều được gọi chung là “Nam phái”, còn các phái Tứ Hóa thì được gọi chung là “Bắc phái”.Căn cứ trên phương diện lấy Cung vị làm Tượng để luận đoán mà phân loại, thì Tử Vi Đẩu Số có hai Đại pháp môn: “Tam hợp pháp” và “Tứ Hóa pháp” (hay còn gọi là Tứ tượng pháp).“Tam hợp pháp” là lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm “Tam hợp”, thêm vào cung Thiên di làm “Tứ chính” hợp thành “Tam phương Tứ chính”. Theo địa chi tam hợp mà đoán việc của người, là cơ sở của học thuyết Đẩu Số.“Tứ hóa pháp” cũng lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm “Tam hội”, nhưng “Tứ chính” thì lấy “cung vị tứ tượng” để quy chiếu, tức là lấy cung Mệnh, cung Tử nữ, cung Thiên di và cung Điền trạch làm “Tứ chính”, khác với “tam hợp pháp” ở chỗ là, Tứ hóa pháp lấy thiên can của sáu cung này để làm tượng luận đoán, chứ không chỉ dựa vào tính của các Sao. Nếu không, sao của sáu cung sẽ hỗn loạn, khó mà đoán việc.Tam hợp pháp gặp trường hợp cung vị không có chính diệu, thì mượn chính diệu của đối cung để dùng.Tứ hóa pháp gặp trường hợp ở cung vị không có chính diệu, lại không mượn chính diệu ở xung cung để dùng, vì nguyên do nó dùng tượng ở can của Cung.Ngoài ra, Tam hợp pháp theo thuyết Ngũ hành, chú trọng Tinh đẩu, cho nên tinh diệu mới có thuyết “miếu, vượng, lợi, hãm”. Còn Tứ hóa pháp thì phối hợp với Quẻ và Lý Số, chú trọng Tượng Số, cho nên Tinh diệu không có thuyết “miếu, vượng, lợi, hãm”.Nói về sự biến hóa của Tử Vi Đẩu Số, ngoại trừ các lưu phái chính như đã nói trên, có một số lưu phái trong quá trình luận đoán, còn dẫn dụng một cách ít công khai các tác dụng đặc thù khác, chẳng hạn như tứ trụ, phong thủy, chiêm bốc, quái tượng, thậm chí cả đến số mục hay mầu sắc của các sao … trong đó sự phân chia khoa mục luận đoán rất tỉ mỉ, không kém sự phân loại của khoa học hiện đại, khiến cho người học đời sau, có lẽ phải mất tinh lực của cả đời người, mới có thể nghiệm một cách hoàn bị và sâu sắc khoa Tử Vi Đẩu Số.